Thực trạng dân số già ở Việt Nam – Lý do cần quan tâm tài chính tuổi hưu

Đăng bởi: Hân Trần - Friday 11/08/2023 - 2702 lượt xem.

CHUYÊN ĐỀ VI : HƯU TRÍ

BÀI 1 : THỰC TRẠNG DÂN SỐ GIÀ Ở VIỆT NAM – LÝ DO CẦN QUAN TÂM ĐẾN TÀI CHÍNH TUỔI HƯU

Tổng cục Thống kê cho biết nước ta đã cán mốc 100 triệu dân vào tháng 4 vừa qua. Việt Nam nằm trong top 15 nước đông dân nhất, xếp hạng 41 về mật độ dân số và đứng thứ 121 về thu nhập bình quân đầu người mỗi năm với 4.010 USD. GDP theo đầu người của Việt Nam tăng gần 5 lần sau 15 năm từ 2006 đến 2021, được gọi là tăng trưởng GDP bình quân đầu người ấn tượng nhất trong các quốc gia trên thế giới, phản ánh sự năng động của nền kinh tế Việt Nam và sự phát triển vượt bậc của nước ta trong những năm qua, theo nhận định của tạp chí Forbes.

Cơ hội là rất lớn, song những thách thức về các vấn đề cơ cấu dân số và thu nhập đối với người dân là không hề nhỏ, đặc biệt là với những người muốn chăm lo cho kế hoạch nghỉ hưu của mình. già hoá dân số. 2023 cũng là nằm mà đất nước đi qua một nửa thời kỳ dân số vàng – bắt đầu từ năm 2007 và dự kiến kết thúc vào 2039, theo Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNF-PA). Một quốc gia bước vào giai đoạn này khi ít nhất hai người trong độ tuổi lao động nuôi một người phụ thuộc (trẻ em dưới 15 tuổi hoặc người già trên 65 tuổi). Đáng chú ý hơn, thời kỳ dân số “già” lại tới vào năm 2036. Cũng theo UNFPA, Việt Nam là một trong các quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới.

Cùng với tốc độ già hoá dân số, tuổi thọ trung bình của người dân cũng tăng cao khiến cho giai đoạn hưu trí kéo dài. Đứng trước thực trạng đó, những người làm chính sách, dù là ở các quốc gia phát triển hay đang phát triển, đều có lựa chọn giống nhau là tăng tuổi nghỉ hưu, giảm tỷ lệ lương hưu. Chính sách này có thể làm gia tăng tỷ lệ rút bảo hiểm xã hội một lần, hệ quả là khi những lao động này suy giảm sức khỏe sẽ không có hoặc có ít nguồn thu nhập khi về già. Sau cùng, áp lực lạm phát gia tăng do giai đoạn hưu trí kéo dài; lạm phát diễn ra không đồng đều trong các nhóm sản phẩm, dịch vụ và thường vượt trội đối với nhóm thực phẩm và chăm sóc sức khoẻ là nhóm nhu cầu thiết yếu đối với người dân, đặc biệt là người cao tuổi.

Vậy ai là người chịu trách nhiệm chăm sóc cho người cao tuổi? Những người đang trong độ tuổi lao động hiện nay có thể trông đợi vào những nguồn thu nhập nào trong tương lai?

Thứ nhất là bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, với vai trò là khoản an sinh xã hội thì không nên kỳ vọng bảo hiểm xã hội sẽ chu cấp tốt cho đa số người cao tuổi, nên chăng coi đó chỉ là một phần thu nhập ở tuổi nghỉ hưu.

Thứ hai là hỗ trợ từ con cháu. Các dân tộc Á Đông có truyền thống chung sống gia đình nhiều thế hệ, “trẻ cậy cha, già cậy con”, tuy nhiên lối sống đó đã thay đổi rất nhiều. Mỗi thế hệ sau này đều gia tăng xu hướng độc lập, cùng với đó là sự gia tăng khác biệt về văn hoá. GenZ chính là thế hệ con cháu của những người đang chuẩn bị cho kế hoạch nghỉ hưu. GenZ có số lượng ít hơn và đặc trưng là những người trẻ tuổi có cá tính, năng động, thích ứng cao với công nghệ. Hỗ trợ từ GenZ cho cha mẹ khi ở tuổi nghỉ hưu rất có thể sẽ giảm nếu so với GenX và GenY trước đó.

Thứ ba là nguồn thu từ việc làm. Đây là xu hướng mà người cao tuổi ở các nước bước qua thời kỳ dân số vàng tìm đến, đó là tìm công việc mang thêm thu nhập chủ động sau giai đoạn nghỉ hưu, như là kéo dài thời gian làm việc trước lúc nghỉ hưu, hay biến kinh nghiệm chuyên môn của bản thân thành một nguồn tạo thu nhập. Việc khuyến khích người cao tuổi tiếp tục làm việc phù hợp với kiến thức, kỹ năng và sức khỏe sẽ tạo hiệu ứng tích cực về cả thu nhập và sức khỏe.

Thứ tư là nguồn thu từ tiết kiệm, đầu tư. Đây là nguồn thu nhập cho hưu trí đòi hỏi có quá trình tích luỹ về vốn, kiến thức, kinh nghiệm với thời gian tính luỹ hàng chục năm. Đó chính là lý do cần phải quan tâm đến hưu trí từ sớm.

Nguồn : Nguyễn Thu Giang – Chuyên gia Hoạch định Tài chính Cá nhân, Công ty CP Tư vấn Đầu tư và Quản lý Gia sản FIDT

Biên tập : Trần Thị Mai Hân ( Hana Tran )

An toàn tài chính – Webketoan – Tư vấn Kế toán online